Việc thờ phụng Nữ thần và Mẫu thần

Thứ Hai, 27 tháng 7, 2015

     Thờ phụng Nữ thần và Mẫu thần là cái nền chung của đòi sống tôn giáo tín ngưỡng các tộc ngườiở Việt Nam và Đông Nam Á. Tuy nhiên, vớimỗi đất nước, mỗi dân tộc, xuất phát từ môi trường tự nhiên, hoàn cảnh kinh tế xã hội và truyền thống văn hóa thì việc thờ phụng Nữ thần, Mẫu thần và Thánh Mẫu có nét đặc thù riêng. Mẫu thần của dân tộc Chăm cũng không nằm ngoài quy luật chung đó.

     Mẫu thần Pô Inư Nưgar đã trở thành một biểu tượng linh thiêng nhất của dân tộc Chăm, xứ sở Chămpa, mà ngày nay còn in đậm trong huyền thoại, truyền thuyết, thần tích, kiến trúc, thờ cúng, lễ hội, phong tục và tâm thức của ngườidân.

Thần thoại, truyền thuyết

     Hiện nay, trong kho tàng thần thoại, truyền thuyết Chăm, chúng ta vẫn còn thấy hai hệ thống giải thích nguồn cội của vị Nữ thần tối thượng này. Một hệ thống mang tính chất vũ trụ luận tôn giáo của đạo Bàlamôn và Hồi giáo Bà Ni và một hệ thống mang đậm tính dân gian phỉ tôn giáo.

Việc thờ phụng Nữ thần

     Hiện tại, trong thư tịch cổ Chăm Bà la  môncũng như trong trí nhớ dân gian vẫn lưu truyền thần thoại vị Nữ thần sáng thế Pô InuNưgar. Bà là vị thần từ cõi trời xuống trần gian, Bà có “97 người chồng, 38 người con tượng trưng cho 37 màu máu, 37 màu máu biến thành 37 giống cây trồng, vật nuôi và các tục lệ cúng thần khác. Thân thể Bà đồng nhất và tượng trưng cho các phần khác nhau của vũ trụ: Thân của Bà chính là bầu trời, đầu của Bà chính là mũ đội của các vị vua, của các sư cả Bàlamôn, cánh tay của Bà tượng trưng cho Sao Cày, đôi chân Bà là saoBác Đẩu, răng của Bà là rìu đá của Thần sấm sét, giọng nói của Bà chính là tiếng sấm sét, hơi thở của Bà chính là gió bão, võng nằm của bà tượng trưng cho bốn hướng đông, tây, nam, bắc. Nữ thần còn có tám bùa phép để tạo ra trờiđất, mặt trời, mặt trăng, con người, tạo thành Chăm Ahiêr (Bàlamôn) và Chăm Awal (Bà Ni). Nữ thần còn tạo ra lịch pháp, các vùng miền khác nhau của xứ sở Chăm…”

     Người Chăm Awal(Bà Ni) còn truyền tụng một huyền thoại sáng thế khác, sản phẩm của sự pha trộn giữa Bàlamôn và Bà Ni. Truyện kể rằng: Vũ trụ thủa ban đầu còn tối tăm, mù mịt, bồng bềnh. Pô Kuksai thần Atmưhekát  xuống tạo dựng vũ trụ và mang ánh sáng cho muôn loài. Atmưkekát dùng phép thuật tạo ra mười hai mặt trời, mười hai mặt trăng. Tuy nhiên, do quá nhiều mặt trời, mặt trăng nên trái đất quá nóng bức, ngột ngạt, do vậy vị thần On Sibakayong phải dùng cung bắn rơi hết mặt trời, mặt trăng làm cho trái đất trở lại thời hoang sơ, tăm tối, mù mịt. Lúc này thần Pô Kuk phải giáng thế cùng vớithần Auloat (Alla), Mohamat cùng chư vị thần Hồi giáo khác làm bầu trời sáng lại, vạn vật lại sinh sôi. Làm xong, Pô Kuk quay về trời, sai ngườicon gái đầu của mình là Pô Inu Nưgarcùng với Pô Auloat, Pô Yang Mư, Pô Debatathuor xuống trần gian để cai quản muôn loài. Đến ngày thứ hai, năm con chuột, Pồ Kuk truyền lệnh cho Pô Inư Nưgar chính thức giáng trần ở Bal Lai (Mỹ Tường, Ninh Thuận). Ở đây, Pô Inư Nưgar lập ra xóm làng Sari-Rawan. Từ đó Pô Inư Nưgar lập ra nước Chăm, sinh ra các vua Chăm để cai tộ đất nước, rồi Bà hóa phép trở về trời.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: những lễ hội ở việt nam

Nghi lễ Then – một thứ “sân khấu tâm linh”

      Nghi lễ Then là sự kết hợp rất nhiều yếu tố nghệ thuật: ca hát, âm nhạc, nhảy múa, trò diễn. Đặc biệt, các yếu tố diễn xướng này lại được thực hiện trước bàn thờ Then và các thần linh, trong một khung cảnh thiêng liêng, tạo nên một thứ diễn xướng, sân khấu tâm tính. Điều này Then và lên đồng của người Việt trong tự nhau. Như nhiều nhà nghiên cứu shaman của các dân tộc trên thế giới đã từng khẳng định, các yếu tố nhạc, hát và múa không thể thiếu được trong nghi lễ shaman, ngoài việc biểu đạt những nội dung nhất định của nghi lễ, nó còn tạo ra môi trường thúc đẩy con người hòa nhập, thông quan với thần linh, một ước vọng muôn thuở của bất cứ loại tôn giáo tín ngưỡng nào.

     Trong nghi lễ Then, lời hát Then và âm nhạc kết hợp với nhau rất chặt chẽ. Cũng có lúc trong nghi lễ, Then không hát mà chỉ tấu nhạc, nhưng thường xuyên hơn là nhạc đệm cho hát. Nhạc của Then chủ yếu là nhạc của cây đàn tính, còn gọi là đàn Then và của bộ nhạc xóc. Đàn tính vốn là nhạc cụ thiêng, tên gọi của nó – Đàn Then (đàn tiên, đàn trời) cũng đã nói lên điều đó. Chỉ sau này đàn Then – đàn Tính mới dùng rộng rãi hơn, ngoài nghi lễ. Âm sắc của đàn Then nghe trầm ấm, nhẹ nhàng, như “lời” dịu dàng, an ủi người yếu mệt. Ngoài phần đệm là chính, đàn Then cũng có một số bản nhạc riêng, như điệu mời rượu, điệu giải buồn, điệu phục tang trong Then Lạng Sơn. Trong nghi lễ Then, nhất là lẩu Then, cây đàn Then có khi giữ vai trò độc tấu của thầy Cả dẫn chtrongtrình, có khi là song tấu hay hòa tấu (3-5 đàn cùng hòa tấu), cũng có khi mỗi cây đàn đi theo một điệu riêng, đó là lúc các thầy Then đi vào các cửa thần linh khác nhau để thỉnh cầu.

      Nhạc xóc là một bộ nhạc rất đặc trưng của Then, biểu tượng cho tiếng vó ngựa của Then dùng trong cuộc hành trình lên Thiên đình. Nhạc xóc cũng đệm cho hát và múa, lúc nhỏ nhẹ khoan thai, lúc dồn dập như vó ngựa phi nước đại. Trước khi vào lễ, nhạc xóc được “chăm sóc” cẩn thận, được tẩy rượu và gừng cho “sạch sẽ”, gọi là “tắm ngựa” Then.

Hát Then

     Là hát thờ, hát nghi lễ, bao gồm nhiều làn điệu khác nhau phù hợp với các tình tiết và trạng thái của nghi lễ. Ngoài ra, mỗi địa phương lại có phong cách hát Then riêng, từ đó hình thành nên các dòng Then như dòng Then Tuyên Quang, dòng Then Hà Giang, dòng Then Cao Bằng, dòng Then Lạng Son, dòng Then Bắc Cạn – Thái Nguyên. Để hình thành nên các dòng Then trên, âm nhạc và làn điệu hát Then đã thu hút khá nhiều chất liệu từ các hình thức dân ca khác nhau, như hát ru, phong slư, lượn Cọi, lượn Then, hát nhà tơ… Giữa nhạc Thennhạc mo cũng có sự du nhập lẫn nhau.

     Theo nghệ nhân Hoàng Hưng (Cao Bằng) thì chỉ trong Then Kỳ Yên (cầu mùa, cầu phúc) có 13 làn điệu khác nhau, như: Cảnh, Roọng, liệng hương, Tàng bốc, lưu thủy, năm pé (khảm hải), Mẻ Bioóc, Pâymạ, sắp bình, đường trường, trình tổ..

Múa Then

Múa Then

      Là múa thiêng, múa nghi lễ,nói cách khác đó là sự tái sinh và hiện hữu của thần linh nhập hồn vào thân xác của ông Then, bà Then. Do vậy có thể xếp múa Then, giống như múa lên đồng vào loại múa của thần lình,phân biệt với loại múa trước thần linh.

     Người ta phân múa Then thành mấy loại:

- Múa chầu tướng,tức là các điệu múa khi làm lễ đón tướng xuống nhập đồng.

- Múa Sluônglà điệu múa của người chở đò qua sông, vượt biển (khảm hải), trong đó gồm múa xuôi sluông, tức múa vượt biển (khảm hải) và múa xuôi sluông đá hoa (sui sluông tản biôc) lúc sắp tan hội.

- Múa tắm vía hào quang cho người được cấp sắc

- Múa vui với nhiều người tham gia, tay cầm đàn, quạt, nhạc xóc để múa vào những  lúc nghi ngoi, thư giãn giữa các nghi lễ Then.

- Trong nghi lễ Then, nhất là khi các vị Thiên tướng nhập hồn (nhập đồng) vào các bà Then, ông Then thì thường diễn ra trò diễn đối thoại giữa Thiên tướng với các ông Đồng, bà Đồng khác. Ở đây, vừa kết hợp giữa lời nói và điệu bộ của Thiên tướng. Thí dụ, khi Tưởng Hổ nhập đồng, tướng bò bốn chân tay, tay cào cào xuống chiếu, miệng “hú hú”, xung quanh xua lớn kêu eng éc để đáp lại. Còn khi tướng Thiên Bồng Thiên Ru xuống khám lễ, tướng quát:

- Đại trung tiểu Quang Lang mời nhà tướng có việc gì?

Thầy Cả thưa:

- Thưa Đức Tướng, mòi Nhà Tướng xuống cứu dân độ thế, cứu trợ nhân gian, trừ ma trừ quỷ.

Nhà Tướng quát:

- Có tiểu lễ hay đại lễ?

- Dạ, có đại lễ ạ!

- Có mấy triệu quân? 

- Dạ, có chín triệu quân.

Nhà Tướng quát

- Gián hường đâu? Con mọn đâu? (ý hỏi vợ chủ đám). Lúc này vợ con của chủ đám ra lạy Đức Tướng và mời Đức Tướng uống rượu, hút thuốc. Đức Tướng nói:

- Nhà Tướng xuống cho con htrong, con mọn đều được bình yên khang thái – vạn đại an ninh, phúc như đông hải, thọ như nam sơn, ctrong thường thọ mạnh nhé.

Tất cả cùng “Dạ, dạ!”. Rồi Tướng nhảy ba nhảy, thăng đồng.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: lễ hội ở việt nam

Hình tượng và màu sắc trong Then

     Có lẽ không có một hình thức tôn giáo tín ngưỡng nào của người Tày mà ở đó hình tượng và màu sắc lại phong phú như Then.

     Trước nhất, chúng ta quan tâm tới hệ thống bàn thờ Then. Bình thường mỗi ông Then và bà Then đều có bàn thờ ở nhà của mình, nằm phía bên phải bàn thờ Tổ tiên; tuy nhiên, khi tổ chức nghi lễ Then, nhất là Then cấp sắc, thì hệ thống bàn thờ trở nên rất đa dạng.

     Ngoài bàn thờ Then cố định, còn lập thêm các bàn thờ Then thầy (mẹ Then hay cha Then), bàn thờ Ngọc Hoàng, bàn thờ thầy Cả (Tào hay Mo), bàn thờ Khỏa Quan, bàn thờ phong sắc ở ngoài sân hay ngoài cánh đồng và đặc biệt việc dựng cầu hào quang. Một trong những biểu tượng của bàn thờ Then là hình tượng cỗ én. Cỗ én bày trước bàn thờ Then gồm những dây treo hình chim én, hoa lá cắt bằng giấy màu. Mỗi khi trong làng bản có Then cấp sắc thì anh em họ hàng, người thân làm những cỗ én này (thường là số lẻ) đem đến nhà ông Then hay bà Then để chúc mừng. Ngoài việc trang trí cho đẹp và lộng lẫy trong ngày lẩu Then (hội Then), thì hình tượng chim én còn mang ý nghĩa tốt lành. Con chim mang lại tin vui, điều may mắn, là con chim được Pụt Luông (Phật) phong là chúa cả hầu hạ các Then, dẫn độ linh hồn Then lên thiên giới.

     Trong Then cấp sắc, bàn thờ của thầy Cả, tức Tào hay Mo đều phải treo những tranh thờ,mà chủ yếu ở đây là tranh của các vị Thần linh Đạo giáo, như: Văn Thù, Mục Liên, Tam Bảo, Địa Tạng, Thái SonMinh Vuong, Bình Chính, Minh Vương, Phổ Hiền, Dạ Lang…Khi tiến hành lễ cấp sắc, người ta phải dựng cầu hào quang ở giữa nhà nằm về phía bên phải bàn thờ Then, cầu hào quang là biểu tượng cho con đường nối liền giữa Đất và Trời, nơi mà Then có thể lên thiên giới tới các cửa Thiên tướng và Thiên tướng từ cửa Trời có thể xuống trần gian chứng giám lễ cấp sắc và nhận cỗ khao, cầu hào quang làm bằng cây tre, gốc còn để nguyên rễ, nối từ đất qua sàn nhà, mái nhà chĩa lên trời. Trên cầu hào quang người ta phủ ba tấm vải ba màu: Đỏ, đen, trắng và treo hình cắt giấy chim én, hoa lá, tiền vàng… Xung quanh cầu hào quang ở mặt sàn nhà, người ta bày nhiều lễ vật dâng cúng, cờ giấy các màu, hình nhân… Một lần nữa, chúng ta lại bắt gặp một dạng thức của cây vũ trụ thường thấy trong nghi lễ tín ngưỡng của các dân tộc nước ta và trên thế giới.

     Trong nghi lễ và thờ cúng của người Tày nói chung, đặc biệt là trong nghi lễ Then, người ta thường thấy hình tượng của cây mía cây chuối. Trong Then cấp sắc, cây mía có treo chiếc gtrong và dải vải đỏ mà các vị Thiên tướng nhập đồng dùng để khám cỗ của các gia đình, từ đó có thể biết được vận hạn của mỗi gia đình trong năm là tốt hay xấu. Nếu xấu thì vị Thiên tướng đó có thể làm lễ giải hạn ngay. Như vậy, ở đãy, cây mía như là một vật để con người có thể nhận biết các điềm báo.

 bàn thờ Ngọc Hoàng

     Cây chuối với sức sống mãnh liệt, sung mãn, là biểu tượng cho sức sống và nơi trú ngụ của linh hồn (khoẳn) của con người, do vậy trongcác nghi lễ liên quan tới sống chết, sức khỏe của con người thì đều xuất hiện cây chuối. Sau nghi lễ, cây chuối được đem trồng vườn, được gia chủ chăm sóc cẩn thận. Trong nghi lễ Then, cây chuối cũng mang ý nghĩa như vậy.

     Trong hành trang túi lễ cũng như bàn thờ của các ông Then và bà Then đều thấy xuất hiện quả trứng.Quả trứng có thể là trứng thật và cũng có thể là trứng đá. Điều này, theo tư liệu điền dã của nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Yên thì quả trứng trong Then có thể liên quan tới trò chơi nhập hồn Nàng Xây (Nàng Trứng), mà huyền thoại Tày cho rằng Nàng Xây là con gái út Pụt Luông, là người bạn tâm tình của các thiếu nữ nhỏ tuổi. Còn trong Then, trứng và hồn trứng là thứ có thể đưa hồn Then đi về cõi âm để tìm hồn của người chết.

     Bộ lễ phục của ông Then và bà Then cũng là một hình tượng nổi bật trong nghi lễ Then. Màu sắc lễ phục chủ yếu là màu đỏ, nhất là đối với ông Then và bà Then sau khi đã được cấp sắc hay thăng sắc. Khi các Thiên tướng nhập thì y phục của Then cũng phải thay đổi. Thí dụ, Ngọc Hoàng mặc áo vàng, Tướng Hiển mặc áo đỏ, Tướng Hổ mặc áo đỏ… Cũng có lúc họ mặc áo dài đen, các màu tối. Mũ Then là dấu hiệu quan trọng thể hiện cấp bậc trong Then thông qua số lượng dải mũ nhiều hay ít (5, 7, 9,11,13,15 dải). Theo tư liệu của Nguyễn Thị Yên thì dòng Then Cao Bằng còn chia thầy Then thành các phẩm, nhất phẩm là cao nhất, cừu phẩm là thấp nhất và giữa các phẩm còn có sự phân biệt về màu sắc áo: Cửu phẩm: áo hồng, Ngũ phẩm: áo xanh, Tứ phẩm: áo đen, Nhị phẩm: áo vàng. Nói chung, cũng giống như lên đồng của người Việt (Kinh), trang phục Then Tày cũng như các đồ trang trí trong nghi lễ thì màu sắc thiên về màu sắc mạnh, lộng lẫy, gây cảm giác phấn khích giúp các bà Then, ông Then dễ nhập hay xuất hồn.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: lễ hội việt nam

Nghi lễ Then – Các loại nghi lễ then

Thứ Bảy, 25 tháng 7, 2015

     Có thể nói, mọi hình thức, hoạt động của tín ngưỡng Then đều thể hiện qua nghi lễ Then. Vậy nghỉ lễ Then là gì?

     Ông Then, bà Then có thể thực hiện nhiều loại nghi lễ khác nhau, trong đó mỗi loại nghi lễ lại đáp ứng những nhu cầu khác nhau của đời sống trần tục, như bói toán, giải hạn, cầu yên, chữa bệnh… Đã có một số sách phân chia nghi lễ Then. Nông Văn Hoàn trong công trình tập thể “Mấy vấn đề Then Việt Bắc”, xuất bản năm 1978 đã phân chia Then của người Tày, Nùng thành mấy loại:

- Then cầu yên

- Then chữa bệnh

- Then bói toán

- Then tống tlễn

- Then cầu mùa, cầu đảo, diệt trùng 

- Then chúc tụng (làm nhà, sinh con, cưới…)

- Then cấp sắc

Nghi lễ Then

     Nguyễn Thị Yên, trong công trình tập thể của nhóm nghiên cứu Then của Viện Nghiên cứu Văn hóa dân gian, thì căn cứ vào hình thức dlễn xướng Then đã phân chia các nghi lễ Then thành bốn loại chính:

- Then bói (bói chữa bệnh, bói tình yêu…)

- Then giải hạn, cầu yên (cầu mẹ Bioóc phù hộ cho trẻ nhỏ, giải hạn nối số cho người già, Then chúc phúc, mừng thọ, gọi vía lạc, cầu tự – cầu con, Then chữa bệnh…). Loại Then này thường dlễn ra vào dịp mùa xuân.

- Then chúc tụng (mừng nhà mới, làm ăn phát đạt, thăng quan tiến chức, mừng thọ…) loại Then này ít tính nghi thức, nặng về ca hát, vui chơi, ứng tác.

- Lẩu Then (Hội Then) tổ chức ở chính nhà của ông Then để dâng cúng tổ nghề Then vào dịp thường kỳ hàng năm và đặc biệt là cấp sắc, nâng sắc cho các ông Then, bà Then.


Ai tham gia điều hành các nghi lễ Then?

     Tùy từng loại Then mà diễn biến nghi lễ Then có khác nhau, từ đơn giản đến phức tạp, trong đó có lẽ Then cấp sắc là quy mô hơn cả. Thí dụ, để điều hành một lễ Then cầu yên, giải hạn, chữa bệnh thì chỉ cần một bà Then hay ông Then cùng với một vài lục sớ (học trò học việc) giúp thêm là đủ.

     Nhưng với lẩu Then cấp sắc thì lại khác. Để điều hành một lễ Then cấp sắc phải cần tới nhiều bà Then (hay ông Then), thầy Tào (có nơi là Pháp sư – thầy Mo), thầy Pụt và những ngườigiúp việc khác. Thí dụ, buổi lễ Then cấp sắc Quảng Hòa (Cao Bằng) cần tói 7-8 Then, Tào, Pụt; còn buổi lễ cấp sắc của người Tày ở huyện Văn Quan thì ít hơn: bốn bà Then, một thầy Mo (Pháp sư) và những người giúp việc khác.

Ai tham gia điều hành các nghi lễ Then

     Trong các thầy Tào, Then kể trên, bao giờ cũng có một thầy Cả, còn gọi là Quan lang, thường là một thầy Tào hay thầy Mo (pháp sư), người đó phải biết chữ Hán hay Nôm Tày, giữ vai trò chủ lễ. Ngoài ra cồn có khoản quan, có vai trò như người liên lạc, trình báo khi vào các cửa dâng lễ. Trong nghi lễ Then cấp sắc hay nâng sắc, trong số các bà Then, ông Then đều phải có một người là mẹ Then hay cha Then tức là người đỡ đầu đứng ra cùng với thầy Cả (thầy Tằo, Mo) điều hành buổi lễ. Trong nghi lễ Then cấp sắc ngoài bàn thờ Then (của người được cấp sắc hay nâng sắc), cồn có bàn thờ Ngọc Hoàng, bàn thờ thầy Cả và bàn thờ Then khỏa quan. Ở đây, qua nghi lễ Then, một lần nữa chúng ta thấy mối quan hệ hữu cơ giữa Then, Tào, Mo, Pụt là những hình thức tín ngưỡng độc đáo và tiêu biểu của người Tày.

     Trong bản làng của người Tày, mỗi lần tổ chức Then đều là dịp tập họp đông đủ những người thân trong gia đình, dòng tộc, người trong làng, thậm chí cả những người ở địa phương khác tới dự, có lúc lên tới hàng trăm người. Nghi lễ Then kéo dài suốt 2-3 ngày đêm, đặc biệt khi nhập đồng các Thiên tướng, Tổ nghề, quân binh sluông(chèo thuyền vượt biển – khảm hải) thường náo nhiệt, sôi nổi, lôi cuốn nhiều người tới xem và tham gia vào các cuộc múa nhảy, vui đùa.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: lễ hội dân gian

Diễn biến nghi lễ Then

Các bước của Then cấp sắc và Then kỳ yên

     Mỗi nghi lễ Then đều có những nét riêng trong tiến trình hành lễ. Ở đây, trong phạm vi có thể chúng tôi chỉ nêu ra những công đoạn chính của hai loại Then: Then cấp sắc và Then kỳ yên. Ngay trong mỗi loại Then như vậy thì tùy thuộc vào từng địa phương đều có sự sai biệt.

     Về Then cấp sắc, chúng ta thử so sánh hai nghi lễ ở Quảng Hòa (Cao Bằng) và Vãn Quan (Lạng Sơn).


Then (Giàng) ở xã Tự Do, Quàng Hòa – Cao BàngThen ở xở Đại An – Văn Quan-LạngSơn
Mở đường, trình việc.Lễ chuộc binh: chuộc binh mã của Then nhập xác, từ đó Then mới có thể điều khiển binh mã đi lên trời trình việc Then.
Dâng lễ vật các cửa Thần.Lên các cửa Thần.
Cửa Thổ công.Cửa Thổ công.
Cửa Tổ tiên gia chủ.Cửa Thành hoàng.
Cừa Tướng Cả (giữ phép thuật Then).Cửa Táo quân.
Cửa các Thiên tướng.Cửa Đẳm Then (Tổ Then).


Cửa tồ nghề Then: Phật Bà Quan Âm.Cửa Tướng Pháp – giữ pháp thuật Then.
Cửa Ngọc Hoàng…Cửa các Thiên tướng.
Khao binh mã.Cửa Ngọc Hoảng…
Lễ cấp sắc ở ngoài đồngCấp sắc ở ngoài sân, rước sắc vào bàn thờ Then.
Đón Thiên tướng xuống khám cỗ, nhận cỗNhập đồng Thiên tướng . chứng giám cấp sắc, khao binh
Tướng phápNhập Ngọc Hoàng
Tướng Thiên Bồng Thiên RuNhập Tướng Tổ nghề
Tướng nguỵ Trưng Độc CướcNhập vua Bà
Tướng cai Bán cai Cường (tổ nghề)Nhập tướng Hiển
Tướng Hỏa Thang.Nhập tướng Hổ.
Tướng Nam Hải.Nhập Thánh đế khám cỗ và giải hạn.
Nhập tướng cá vui đùa.
Khao cỗ, tiệc mừng, tlễn khách.Khao hội, vui chơi tlễn khách.

Diễn biến nghi lễ Then

      Như vậy, về cơ bản Then cấp sắc ở Cao Bằng và Lạng Sơn đều tuân thủ trình tự cơ bản, tuy nhiên cũng có một số sai biệt chi tiết, như các cửa Thần phải đi dâng lễ, các Thiên tướng nhập đồng. Đặc biệt, Then ởCao Bằng chỉ dâng lễ cửa Ngọc Hoàng, trong khi ở Lạng Sơn thì vừa dâng lễ cửa Ngọc Hoàng, vừa nhập đồng Ngọc Hoàng xuống giám lễ và khao binh… Các bước tiến hành của Then cấp sắc thường dlễn ra từ 2-3 ngày, ngày đầu làm lễ mở đường trình việc, ngày thứ hai dâng lễ vật lên cửa thần linh và ngày thứ ba đón tướng (nhập đồng) và khao hội.

     Đối với nghi lễ Then kỳ yên thì đơn giản hơn, thường là bao gồm các bước:

-   Sắp binh mã (sắp mạ)

-  Khám cỗ (khảm cộ)

-   Giải uế (giải vé)

-   Dâng lễ Tổ sư, Pháp sư, Nam Tào – Bắc Đẩu (hay cửa Tu Pháp)

-   Hồi binh mã (hòi mạ)

     Có thể nói nghỉ lễ cấp sắc là một cuộc hành trình dài của các ông Then, bà Then tới cửa thần linh nhằm thỉnh mời các thần linh, từ Thành hoàng, Thổ Công, Tổ Tiên đến các Thiên tướng về chứng giám lễ cấp sắc, trao quyền pháp cho thầy Then khi hành lễ, sau đó lại tiễn các thần linh về trời. Đối với Then nối số của người già (tiếp số để sống lâu hơn) thì Then chỉ cần đến cửa Nam Tào – Bắc Đẩu, tức vị thần giữ sổ sinh tử của người trần. Còn Then cầu tự, chữa bệnh cho trẻ nhỏ thì đến cửa Mẻ Bioóc.

     Để các Then đến các cửa mời thần linh, hay khi thần linh nhập đồng vào thân xác các bà Then, ông Then thì phương thức biểu đạt chủ yếu là qua các lời hát Then, nhạc cây đàn tính, nhạc xóc (biểu tượng tiếng vó ngựa phi), các điệu múa hay trò diễn. Đó là môi trường nghệ thuật rất cần thiết để con người và thần linh thông giao và hòa hợp.

Từ khóa tìm kiếm nhiều: lễ hội dân gian việt nam

Nhập hồn và xuất hồn trong nghi lễ Then

     Trong nghi lễ của Then chúng ta thấy có các hiện tượng nhập hồnxuất hồn, trong đó hiện tượng nhập hồn là rõ nét và tiêu biểu nhất.

- Hiện tưọmg nhập hồn thường diễn ra ở hai giai đoạn. Giai đoạn đầu là lễ chuộc binh và giai đoạn sau là lễ nhập đồng của các Thiên tướng xuống chứng giám lễ cấp sắc, khao cỗ. Lễ chuộc binh hay lễ mở đường, trình việc diễn ra cảnh nhập Then, tức là lúc ông Then, bà Then từ một người bình thường, do các ma Then nhập vào để có thể điều khiển âm binh. Lúc này, các bà Then, ông Then ngồi rùng mình, tay xóc nhạc ngựa và roi vào trạng thái ngây ngất (ecstacy) thực sự. Đối vớinhững người “xuống Then” lần đầu, thì lễ chuộc bình còn có ý nghĩa là thu nhận “binh mã” của những người làm Then từ các đời trước của gia tộc.

     Hiện tượng nhộn nhịp và kéo dài nhất của nghi thức nhập hồn của lẩu Then cấp sắc là lúc các Thiên tướng từ các cửa trên trờinhập đồng. Mỗi cuộc lẩu Then như vậy có gần một chục vị Thiên tướng, tướng tổ nghề Then nhập đồng, trái lại, chúng ta lại không thấy các vị thần địa phương, như Thành hoàng, Thổ thần, Tổ tiên nhập.

     Trong lễ cấp sắc ở Lạng Son, vị tướng nhập đồng đầu tiên là Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng nhập đồng vào Then thầy (mặc áo vàng), nhận khân áo, giày, đốt htrong, ngậm htrongvào miệng cắn ba lần làm nghi lễ khai quang cho Then, ban cấp bổng lộc và cuối cùng đứng dậy sai xóc nhạc ngựa nhảy lễ ba lần rồi thăng. Sau đó lần lượt các vị Thiên tướng khác nhập đồng.

     Đặc biệt, trong nghi lễ lên đồng có vị Tướng Hiển (ở Lạng Son) và Tướng Hỏa Thang (ở Cao Bằng), chủ sự về trừ tà, chữa bệnh, thường nhập đồng dưới dạng dẫm lên đống lửa đang cháy. Lần này, bà Then được cấp sắc, mặc áo đỏ, bái lạy để Tướng Hiển nhập xác. Bà vung quạt ba lần, Tướng Hiển đã nhập. Ngườigiúp việc chọn ba ngọn đuốc đang cháy để lên tàu lá chuối. Tướng Hiển đi quanh tàu lá chuối ba lần rồi nhảy dẫm chân lên đống lửa tói khi tắt. Tiếp sau, Tướng Hiển khám ngựa và đòi đi ngựa, phán truyền rồi thăng.

xuất hồn trong nghi lễ Then

     Khi Tướng Hổ nhập thì thường lấy ngón tay cào mạnh vào chiếu, miệng kêu “hú hú”, còn người khác thì xua lợn để kêu to, sau đó Thánh thăng. Có vị Thiên tướng nhập xuống để đi khám cỗ, tay cầm cây mía có buộc vải đỏ và htrongtrên ngọn. Qua khám cỗ của từng nhà trong bản, Thiên tướng có thể biết nhà nào đang hay sẽ có hạn, do vậy hôm sau trước khi Thánh thăng phải sắm lễ để Thánh giải hạn cho.

     Thánh Cá nhập đồng dưới dạng trẻ con, từ nét mặt, lòi nói đến hành động đều phỏng theo phong cách trẻ nhỏ, vui đùa, nghịch phá, gây không khí rất vui vẻ, náo nhiệt. Còn các Sluông(chèo thuyền) nhập đồng để chèo đò đưa Then vượt biển (khảm hải) thì thực sự tạo nên trạng thái ngây ngất (ecstacy) của các thầy Then.

- Hiện tượng nhập hồn (nhập đồng) thường đi liền với trạng thái xuất hồn, tuy nhiên đó là hiện tượng nhập hồn và xuất hồn của cácThần linh. Còn đối với các ông Then, bà Then thì có hiện tượng xuất hồn và nhập hồn không? Như trên đã nói, trước khi vào buổi lễ đã dlễn ra nghi thức nhập ma Then vào các ông Then và bà Then, điều đố đã rõ. Tuy nhiên, trong quá trình Then điều khiển âm binh hành trình lên các cửa thần linh, từ Tổ tiên, Thành hoàng, Thổ thần đến cửa tổ nghề Then, cửa các Thiên tướng và Ngọc Hoàng thì có phải đó chính là lúc các Then xuất hồn không? Điều này, chúng ta có thể cảm nhận được qua lời hát, tiếng đàn, ít khi biểu hiện thành hành động như khi nhập hồn các thần linh. Đó là vấn đề cần xem xét và quan sát thêm trước khi đưa ra lời khẳng định.

     Nghi thức nhập hồn của ông Then, bà Then còn thể hiện qua các nghi thức nhập hồn để xem bói. Thí dụ, một ngườitrong làng bản bị mất trộm, hỏi Then xem ai đã lấy cắp. Lúc này, Then phải nhập hồn Thổ thần để hỏi xem ai là thủ phạm. Then cũng có thể nhập hồn Tổ tiên để căn dặn, khuyên bảo con cháu…

     Đề thực hiện việc nhập hồn và thoát hồn, các ông Then và bà Then phải “mượn” tới các phương tiện:

- Quả trứngchim én là vật thiêng có vai trò dẫn hồn Then đi hành nghề.

- Bằng sắc và ấn của Ngọc Hoàng đã cấp cho Then để có thể đưa vào cửa Thần linh.

- Chùm nhạc xóc tượng trưng cho âm binh của Then.

- Quạt phép (quạt trời) giúp Then làm các động tác biến hóa.

- Gương để soi đường cho thầy Then đi.

- Đànhát khỉ hành lễ giúp Then dễ hòa nhập, thông qua với thần linh.

     Như vậy, có thể khẳng định Then là một hình thức shaman giáo, một hiện tượng tín ngưỡngcổ xưa, phổ biến ở nhiều dân tộc, trong đó vừa thấy hiện tượng nhập hồn và thoát hồn. Xét từgóc độ thể chất cơthể, quá trình rèn luyện để thành nghề và đặc biệt là việc tự đưa mình vào trạng thái ngây ngất (ecstacy) để thoát hồn và nhập hồn nhằm thông quan vớithần linh, thì ông Then và bà Then là một dạng của thyshaman.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: các lễ hội ở việt nam

Ngôn từ trong Then

     Từ nhân lõi là yếu tố tín ngưỡng, Then đã sản sinh và tích hợp nhiều giá trị văn hóa nghệ thuật, tạo nên một hiện tượng văn hóa dân gian tổng thể rất tiêu biểu của văn hóa dân gian Tày. Điều đặc biệt cần nhái mạnh là cái yếu tố văn hóa nghệ thuật ở đây tồn tại trong một tổng thể nguyên họp, đan xen, hòa nhập, cái nọ là tiền đề cho sự tồn tại của cái kia, tạo nên một môi trường dlễn xướng hài hòa trọn vẹn. Tuy nhiên, để hiểu được các yếu tố và giá trị văn hóa – nghệ thuật của Then, chúng ta tạm thời phải tách chúng ra để xem xét.

Ngôn từ trong Then

     Cũng như hầu hết các hình thái tôn giáo tín ngưỡng khác, yếu tố ngôn từ bao giờ cũng là cái quan trọng và quyết định nhất. Chúng bao gồm những huyền thoại, truyền thuyết về các thần linh, các nghi lễ và phong tục liên quan, đặc biệt là những lời hát Then. Cho đến nay, do nỗ lực của nhiều cá nhân và các tổ chức nghiên cứu, chúng ta đã và đang sưu tầm các lời hát Then, trong đó có những bài Then đã được xuất bản. Tuy nhiên, còn lâu công việc này mới hoàn chỉnh. Đó là kho tàng các lời Then tới hàng vạn câu. Đấy là chưa kể trong diễn xướng của nhiều dòng Then, nhiều địa phương lời Then vẫn tiếp tục được ứng tác từ các nghệ nhân Then. Điều này thật dễ hiểu, vì từ cội nguồn lòi hát Then lưu truyền bằng trí nhớ và truyền khẩu là chính, sau này, một số người dùng văn tự Nôm Tày hay văn tự tiếng phổ thông (tiếng Việt) để ghi lại lời Then. Việc này phần nào giúp cho việc cố định lại các lồi Then, tránh mất mát, tuy nhiên, cũng không cản trở việc các ông Then, bà Then với tư cách là nghệ nhân hát Then, tiếp tục sáng tạo ra các dị bản mới.

Ngôn từ trong Then

     Lời Then là các câu văn vần, theo thể thơ 7 chữ, 5 chữ, thậm chí có đoạn khá tự do kéo dài tới 8,9,10 hoặc 12 chữ. Trong dlễn xướng Then, xen kẽ với phần hát chính, thỉnh thoảng lại xen vào các đoạn đối thoại giữa thần linh khi nhập đồng với những ông Then, bà Then khác, làm cho không khí buổi lễ thêm sinh động hơn.

     Tất nhiên, ngôn ngữ thơ và lời thoại chủ yếu là ngôn ngữ Tày. Tuy nhiên, tùy theo từng địa phương, nhiều lúc ông Then, bà Then thậm chí cả thầy Cả (Tào hay Mo) nữa cũng còn dùng tiếng phổ thông (Việt) hay tiếng Hán. Điều này có nhiều căn nguyên, có thể là do giao lưu tín ngưỡng giữa Tày với Việt và Hán, do vậy, họ giữ nguyên tiếng nói của dân tộc mà Then của người Tày tiếp nhận. Cũng có thể khi dùng tiếng nói khác tộc trong nghi lễ Then cũng làm tăng thêm tính linh thiêng, bí ần của nghi lễ. Và, cũng không loại trừ trường hợp, không ít bộ phận người Tày mà nay còn lưu truyền hình thức Then vốn xưa là một bộ phận người Kinh (Việt) ở miền núi đã bị Tày hóa. Hơn thế nữa, còn có giả thiết Then của Tày là do nhóm người Kinh thời nhà Mạc ở Cao Bằng sáng tạo ra (thế kỷ XVI)…

     Có thể nói, những lời hát Then, các truyền thuyết và huyền thoại về Then, một phần đã được văn bản hóa, một phần lớn còn truyền miệng trôi nổi, đã tạo nên một kho tàng văn học của tín ngưỡng Then


Các Thân linh địa phương (Thành hoàng, Thổ thần, Tổ tiên)

Thứ Sáu, 24 tháng 7, 2015

     Trong bàn thờ Then không thấy thờ cúng Thành hoàng, Thổ thần, Táo quân hay Tổ tiên, tuy nhiên khi đi hành lễ, trước khi âm binh của Then lên chầu cửa Tổ Then, tướng Then thì bao giờ cũng phải qua cửa Tổ tiên, thổ thần, Tảo quânThành hoàng. Các vị thần linh kể trên vừa của địa phương, nơi bà Then, ông Then cư trú, vừa là thần linh địa phương của gia chủ nơi hành lễ.

    So với các Thiên tướng và Đẳm Then (tướng Then) thì vai trò của các thần linh địa phương khiêm tốn hơn. Thí dụ, các ông Then, bà Then có thể mượn âm binh của Thổ thần, Thành hoàng, Táo quân đi trợ giúp Then hay chí ít cũng báo cho các vị thần linh này không gây khó dễ trong khi Then hành lễ.

Các Thân linh địa phương

     Qua hệ thống điện thần nêu trên, chúng ta thấy có sự tích hợp giữa yếu tố tín ngưỡng bản địa của người Tày qua việc thờ cúng Đẳm Then (tổ Then), thờ Thổ thần, Thành hoàng, Táo quân, thần bản mệnh của Then… với các yếu tố tín ngưỡng ảnh hưởng từ bên ngoài, như Đạo giáo, Phật giáo, Nho giáo, trong đó Đạo giáo là đậm nét nhất. Điều này một lần nữa, cũng như nhiều tôn giáo tín ngưỡng khác, minh chứng con đường hình thành và tồn tại của tín ngưỡng tôn giáo Việt Nam là sự kết họp giữa yếu tố bản địa (nội sinh) và những ảnh hưởng bên ngoài (ngoại sinh) hay là sự bản địa hóa các tôn giáo tín ngưỡng ngoại lai. Với lại, những ảnh hưởng Đạo giáo dân gian của Trung Quốc cũng không phải là cái gì xa lạ, vì bản thân văn hóa các dân tộc nam Trung Quốc và các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, trong đó có dân tộc Tày, cũng đều nằm trong khu vực Đồng Văn.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: các lễ hội truyền thống việt nam

Tổ nghề Then và dòng dõi Then

- Theo quan niệm của ông Then, bà Then thì các vị thần linh này nắm giữ các pháp thuật của Then, do vậy, các thầy Then trước khi đi hành nghề đều phải dâng lễ ở cửa Tướng Tổ để xin pháp thuật. Có nơi gọi cửa tổ nghề là cửa pháp. Trong các buổi lẩu Then cấp sắc, đoàn dâng lễ của Then phải trình qua của pháp rồi mói đến trình cửa tướng. Tại cửa pháp, người dâng lễ phải trình bày về thân thể, phẩm chất của người được cấp sắc, trình tự nghi lễ cấp sắc.

  – Then của người Tày Cao Bằng thì quan niệm tướng tổ nghề Then chính là Ngọc Hoàng và Phật Bà là thủy tổ của nghề Then, cùng các pháp sư có tiếng như Tề Thiên Đại thánh, Minh Thiên Đại Thánh…

Tổ nghề Then

- Dòng dõi Then còn có Đẳm Then (tổ tiên Then) gồm những người trong gia tộc, dòng họ của Then đã từng là Then. Ở Cao Bằng, Đẳm Then còn được gọi là Phong Lưu. Tùy theo từng nơi mà Đẳm Then được gọi với các tước hiệu khác nhau: Đẳm pó sụa Quyền Kim, Đắm gia sựa Quế Hoa, Đẳm pó Quận Cồng, Đẳm gia Hán Vẫn, Đẳm pó Trạng Công, Đẳm mậu sinh Quyến Htrong. Trong bàn thờ Then ở nhà hay lúc đi ra ngoài hành nghề, Then phải tới cửa tổ then để trình báo và thỉnh mời trợ giúp. Thí dụ, trong lễ nâng sắc Then của Then Luân Thị Thu ở Văn Quan (Lạng Sơn), Then thầy chủ lễ phải phân các Then đi vào các cửa của các vị tổ dòng dõi Then (cả vợ của họ nữa) để mời họ về giúp lẩu Then. Đó là các tổ Hoàng Pháp Dạt, Hoàng Pháp Hạnh, Hoàng Pháp Hiển, Hoàng Văn Díiu, Hoàng Viền Chinh… Những thầy Then và mẹ Then, còn sống thì bà Then, ông Then phải thờ vía sống – khoẳn đíp, nếu đã mất thì cũng nhập vào dòng tổ Then (Đảm Then).

- Theo quan niệm của người Tày, những người làm nghề Then, ngoài thể xác của họ ở trần gian sinh sống như mọi người, thì còn phần hồn vía Then (khoẳn đíp) trú ngụ ở cửa Then. Sau khi được cấp sắc nó mang những tước hiệu mà chỉ khi Then tới cửa Ngọc Hoàng thì mói xưng tước hiệu như: Trạng Kim, Trạng Tiên, Trạng Vtrong; Định Kim, Định Tiên, Định Vân, Quận Kim, Quận Tiên, Quận Vân, Quyền Vân, Quận Vương… Khi hành lễ đầu tiên, các ông Then, bà Then phải nhập Then, tức nhập hồn vía Then của chính bản thân mình. Lúc đó họ không còn là họ trong đời sống trần tục nữa, mà đã trở thành Then (tiên), có thể điều hành các âm binh của mình trong buổi lễ. Như vậy, Then có sự phân thân, họ có các âm binh và thờ chính các âm binh đó.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: những lễ hội ở việt nam

Ngọc Hoàng và các Thiên Tướng của Then

      Hệ thống thần linh của Then bao gồm các thần linh được Then thờ cúng ở bàn thờ Then, cũng như những thần linh mà Then phải thỉnh mời khi tiến hành nghi lễ. Có thể phân chia các thần linh của Then thành ba lớp chính:

- Ngọc Hoàng và các Thiên tướng.

- Tổ nghề Then và dòng dõi Then.

-   Các Thần linh địa phương(Thành hoàng, Thổ thần, Tổ tiên).

Ngọc Hoàng và các Thiên tướng

      Trong hệ thống thần linh của Then thì Ngọc Hoàng và các Thiên tướng chiếm vị trí cao nhất, trong đó Ngọc Hoàng được coi như Vua cha, có quyền cấp sắc cho các Then. Tuy có những nét chung, là các vị thần linh trị vì trên trời, trấn giữ các phương theo quan niệm của Đạo giáo, phần lớn là các vị thần trong thần điện của Đạo giáo hay Phật giáo…, nhưng tên gọi và cách sắp xếp ngôi thứ của các vị Thiên tướng, đặc biệt là các vị Thiên tướng được mòi nhập đồng trong nghi lễ Then thì mỗi nơi một khác.

      Thí dụ, Then của người Tày ở Quảng Hòa (Cao Bằng) thì Ngọc Hoàng và các Thiên tướng phân chia thành năm phương:

-   Phya cắm (núi cắm) thuộc hướng đông, hiệu Thanh Đế.

-    Phya Đắn (Núi Danh) thuộc hướng tây, hiệu Bạch Đế.

-   Phya Danh (Núi Danh) thuộc hướng nam, hiệu Xích Đế.

-  Phật Bà Quan Âm thuộc hướng bắc, hiệu Hắc Đế.

-  Ngọc Hoàng thuộc trung tâm, hiệu Hoàng Dế.

Ngọc Hoàng và các Thiên tướng

     Trong năm hướng kể trên, các hướng đông, tây, nam lại được biểu tượng bằng các tên núi, Phya cắm, Phya Đán Phya Danh, tên các ngọn núi huyền thoại của người Tày.

     Trong nhóm các Thiên tướng kể trên, Ngọc Hoàng ở trung trong (trung tâm) chiếm vị trí vua cha, chúa Then, thống soái Thiên Đình. Vai trò của Ngọc Hoàng thể hiện trong nghi lễ cấp sắc. Các Then chỉ được lên cửa Ngọc Hoàng vào dịp lẩu Then (Hội Then) để nhận sắc, còn trong các nghi lễ nhỏ thì không cần đến cửa Ngọc Hoàng. Riêng lẩu Then ở Lạng Sơn, Hà Giang thì Ngọc Hoàng được mời xuống cấp sắc và nhập đồng.

     Có nơi quan niệm Ngũ phương lại gắn với tên của năm vị Thiên tướng: Nguyễn Bá – hướng đông, Triệu Công Minh – hướng tây, Lưu Văn Đạt – hướng nam, Lại Văn Nghiệp – hướng bắc và Lý Nguyên Phan – trung trong. Tuy nhiên, xuất xứ của các vị tướng này đâu thì các bà Then, ông Then đều không rõ.

     Các Thiên tướng của Then phần nhiều là các vị thần trong Đạo giáo, thậm chí cả Phật giáo nữa, như Tam Thanh (Thượng Thanh, Thái Thanh, Ngọc Thanh), Phật Bà Quan Ăm, Tề Thiên Đại Thánh, Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo, Thiên sư, Nguyễn Bá, Huyền Thiên thượng đế, Thiên Lôi, Đại Lôi, Hỏa Lôi, Ngũ Lôi, Bạch Xà, Hắc hổ…

     Trong danh sách các vị Thiên tướng, đãy đó ta còn thấy các vị thánh của Đạo giáo Việt Nam, như Đức Thánh Trần, thần Độc Cước, thậm chí cả Phạm Nhàn (Phạm Nhan) vị hung thần giữ cửa bệnh tật. Khi cần tói các vị Thánh này, thậm chí cả một số vị Thiên tướng khác, thì thầy Tào, thầy Then phải nói và hát bằng tiếng Kinh (Việt)

     Các vị Thiên tướng trấn giữ các cửa mà trong hành trình của Then phải ưải qua, như cửa Ngọc Hoàng, cửa Tướng Hiển (ở Then Cao Bằng gọi là Tướng Hỏa Thang, Vạn ắc), cửa Tướng Phép (tướng giữ phép thuật của Then), cửa Vua Bà (Phật Bà Quan Âm), cửa tướng Hổ (Hắc Hổ, Ngũ Hổ), cửa tướng Hác (gốc người Hán, khi nhập đồng nói tiếng Hán).



Từ khóa tìm kiếm nhiều: lễ hội ở việt nam


Quá trình để trở thành Then

     Trở thành Then phải trải qua quá trình học hỏi và thăng tiến. Trước nhất, người “xuống Then” – ccnsớ phải trải qua việc học nghề với sự giúp đỡ của hai thầy dạy, trong đó một người là Then gọi là Thầy mẹ và một người kia là Mo hay Tào, gọi là Thầy cha. Nghi thức để trở thành con sớ phải chui qua nách cha Then và mẹ Then ba lần, coi đó như là sự tái sinh một lần nữa. Từ đây, con sớ sẽ có tên mới, tên này được giữ bí mật chỉ dùng khi xưng danh trước Ngọc Hoàng mà thôi. Sau nghi lễ này, con sớ bước vào thời kỳ “cấm cung” (căm sứt), ngắn thì 7-8 ngày, dài cũng phải 30-40 ngày. Trong thời gian “cấm cung”, con sớ phải thực hiện một số kiêng kỵ:

- Không bước ra khỏi nhà một mình, mà phải có người đi cùng.

- Không đi đến gần bàn thờ trong nhà.

- Không ăn thịt, mỡ.

- Không gặp mặt chồng hay vợ (nếu có).

      Trong thời gian căm sứt (kiêng) này, dưới sự hướng dẫn của cha Then, mẹ Then, con sớ học cách tiếp nhận sức mạnh vô hình của ma Then thông qua các phép thuật, học đàn, hát, cách thức kiêng cữ của người làm Then… Con sớ muốn trở thành Then phải trải qua sự kiểm tra của cha Then và mẹ Then và cuối cùng qua nghi lễ cấp sắc đầu tiên – Lẩu khai quang để trở thành Then chính thức.

      Trong cuộc đời làm Then của mình, ông Then hay bà Then phải trải qua nhiều lần thăng sắc. Như vậy, cấp càng cao thì uy tín của Then càng lớn. Biểu hiện của cấp bậc của Then là số dải dây mũ, như:

      Then mũ 5 dây Then mũ 7 dây Then mũ 9 dây Then mũ 11 dây Then mũ 13 dây Then cao nhất mũ 15 dây.

Quá trình để trở thành Then

     Số dây mũ của cấp bậc Then tương ứng với số âm binh của bà Then, ông Then có thể huy động và chỉ huy trong nghỉ lễ. Thường rất hiếm ngưởi ở bậc mũ 15 dây vì bao giờ Then cũng phải dừng ở bậc thấp hơn bậc của cha Then và mẹ Then của mình. Như vậy, một bà Then và ông Then đạt cấp Then 13 dây mũ thì phải qua sáu lần làm lễ lẩu Then nâng cấp.

     Sau khi trở thành Then, ông Then, bà Then phải tuân thủ các quy định trong quan hệ với cha Then, mẹ Then của mình (tức hai người thầy dạy), với bố mẹ, anh em họ hàng, với những người làm Then khác khi hành lễ, kiêng kỵ trong quan hệ tình dục trước và sau khỉ hành lễ…

     Các bà Then, ông Then cũng phải sắm đủ các vật thiêng, như áo, mũ (tùy theo cấp bậc của mình), nhạc xóc, đàn tính, ấn, bộ gieo quẻ xin âm dtrong, quạt, chuông đồng…

     Như vậy, Then là một loại  người đặc biệt trong cộng đồng bản làng của người Tày, mà do nguồn gốc xuất thân, do bản tính của cá nhân (có căn Then), mà buộc họ phải trở thành ông Then, bà Then, thông qua sự tập luyện, dạy bảo của hai thầy: cha Then và mẹ Then. Họ tự cho rằng, họ có khả năng đặc biệt trong việc thông quan với thần lỉnh, với thế giới  siêu nhiên và tiếp nhận ở đó sức mạnh để đạt được mục tiêu là người môi giới giữa người trần và thế giới thần linh. Vậy thế giới thần linh của Then là gì?

Từ khóa tìm kiếm nhiều: lễ hội việt nam

Then là gì? Ai có thể trở thành Then?

     Then (Tiên, Thiên) vừa là tên chỉ một loại thầy cúng: ông Then, bà Then, vừa là một nghi lễ - nghi lễ Then, làm Then và bao trùm lên là một loại tín ngưỡng tôn giáo. Vậy đó là loại tôn giáo tín ngưỡng gì? Bản chất và nguồn gốc của nó? Những biểu hiện của Then trên phương diện tín ngưỡng và văn hóa như thế nào?

     Then, còn gọi là Sliên, có nghĩa là Tiên, cũng như Pụtcó nghĩa là Phật. Không phải tất cả mọi người đều có thể trở thành Then – ông Then hay bà Then, mà chỉ có một bộ phận nhỏ mà thôi. Xét về giới thì tuyệt đại đa số Then là nữ – bà Then. Thí dụ, theo điều tra của Đoàn Thị Tuyến, ở huyện Văn Quan (Lạng Sơn) có 55 người làm Then thì có 50 là nữ, chiếm 91%. Then là nam – ông Then – thì ở Cao Bằng gọi là Giàng(Then Giàng), còn ở Lạng Sơn thì gọi là Then tậc (Then Đực). Như vậy có thể dự đoán rằng khởi đầu Then là nữ, sau này mới có một số nam giới làm Then, nên mới có thêm một đuôi của tên vào sau chữ “Then”.

     Trở thành Then không phải là sự tự lựa chọn do sở thích cá nhân, mà phần lớn do căn số, ma Then nhập vào nên buộc phải thành Then. Những người đó trước sau phải “xuống Then”. Những người trở thành Then phần lớn đều rơi vào hai trường họp: Có căn Then (mmg bang) hoặc gia đình, dòng dõi có người là Then (tẩn Then). Tuổi thành Then cũng không cố định, có người “xuống Then” khi mới 12,13 tuổi, cũng có người 30-40 tuổi mới trở thành Then. Thậm chí có trường họp hơn 50-60 tuổi mới chịu “ra Then”. Họ cũng có thể có vợ chồng rồi mới thành Then, nếu còn trẻ đã “xuống Then” thì thường không lấy chồng, lấy vợ. Những người có “căn số” Then thường là những người rất nhạy cảm, tính tình dễ thay đổi, hoạt bát, năng động, có khả năng về nghệ thuật đàn hát, nhảy múa.

Then là gì

     Những người có căn số Then mà chưa “xuống Then” thì thường dễ rơi vào trạng thái bị “cơ đày”, “thánh hành xác”, tức cả thể xác lẫn tinh thần rơi vào trạng thái khủng khoảng, như phát cơn điên khùng, thần kinh hoảng loạn, mất ăn, mất ngủ, hay đi lang thang, hay ngất xỉu, bệnh chữa không khỏi… Đây cũng là trạng thái cơ thể của nhiều người trước khi thành thầy shaman của nhiều dân tộc trên thế giới.

     Thí dụ, trường hợp của bà Hoàng Thị Ba ở xã Đại An huyện Văn Quan, Lạng Sơn, 65 tuổi, nguyên là chủ tịch Hội phụ nữ xã. Bà đã lấy chồng, có bảy con trai và gái. Gia đình nhà chồng của bà đã có gốc làm Then từ mấy đời, sau đó không có ai kế nghiệp. Bắt đầu từ năm 1999 bà luồn ốm đau, sút cân, nhiều lần đi bệnh viện ở huyện và tỉnh đều không khỏi thậm chí còn có triệu chứng nặng thêm. Khi đi đến Then bói thì được biết bà phải nối nghiệp Then nhà chồng. Cả bà và chồng con đều không muốn bà trở thành Then, nhất là hiện tại bà lại là một cán bộ phụ nữ xã. Tuy nhiên, càng ngày bệnh của bà càng trầm trọng, có triệu chứng khác lạ, như ban đêm hay ra ao tắm, ngồi trên ngọn cây suốt đêm, tìm đến các lễ Then để xóc nhạc, nhảy múa… Sau nhiều lần chần chừ, cưỡng lại không được, đến tháng 11/2000 bà Ba đã phải làm lễ “xuống Then” trở thành một bà Then thực thụ.


Tín ngưỡng với nghệ thuật biểu diễn dân gian

Thứ Năm, 23 tháng 7, 2015

     Tín Mọi hoạt động tôn giáo tín ngưỡng đều được thực hiện thông qua một hình thức nghi lễ nhất định, mà nghi lễ suy cho cùng đều là một thứ trình dlễn mang tính đặc thù. Trong quá trình thực hành nghi lễ tôn giáo tín ngưỡng đều không thể thiếu sự bổ trợ của các hoạt động văn hóa nghệ thuật, như âm nhạc, ca hát, múa, các trò dlễn… Điều này càng thể hiện rõ trong các hoạt động tôn giáo tín ngưỡng của người Tày và Nùng.

     Trước nhất, ta có thể đề cập tói âm nhạc Tày, Nùng. Theo cách phân chia thông thường người ta phân chia âm nhạc dân gian Tày, Nùng thành hai loại: Âm nhạc đòi thường và âm nhạc tín ngưỡng, trong đó âm nhạc tín ngưỡng đóng vai trò rất quan trọng cả về phương diện số lượng âm và chất lượng, đấy là chưa kể nhiều hình thức âm nhạc đòi thường có nguồn gốc từ âm nhạc tín ngưỡng. Âm nhạc tín ngưỡng của người Tày, Nùng bao gồm các thể loại: hát cúng và hát tang lễ. Trong các loại hát như vậy có sự tham gia của hát và các loại nhạc cụ, như đàn, sáo, hống, thanh la, chuông, nhạc xóc…, trong đó cây đàn tính chiếm vị trí chủ đạo. Trong hát cúng, có hát cúng của thầy Mo, Then, Pụt, Shin (chỉ riêng ở tộc Nùng). Còn hát tang lễ thì chủ yếu liên quan đến thầy Tào và hát khóc ma (hảy phi) của nữ tang chủ. Trong các hình thức kể trên, hát Then là hình thức nhạc hát tín ngưỡng điển hình hon cả, với nhiều thể loại và kèm theo đó là các hình thức hát và âm nhạc khá phong phú, đa dạng.

nghệ thuật biểu diễn dân gian

     Nhạc, hát kết họp với múa trong các nghi lễ của người Tày, Nùng là điều mà chúng ta thường quan sát thấy. Ngoài múa sư tử là hình thức múa khá phổ biến trong lễ hội, thì múa trong nghi lễ Then là điển hình nhất trong hệ thống múa nghi lễ của người Tày và Nùng. Múa Then theo nghiên cứu của PGS. Lê Ngọc Canh là một hệ thống các điệu múa phù họp với dlễn xướng nghi lễ kéo dài của Then, như múa vượt biển (khảm hải), múa khúc lên đường, múa chèo thuyền, múa chiến đấu với ma vương, múa đi săn thú, múa đánh hổ, múa vượt rừng tuyết, múa chầu quạt các loại, múa chầu nhạc, múa chầu đàn, múa tán hoa… Các điệu múa trong nghi lễ hội Nàng Hai ở người Tày Cao Bằng là điển hình nhất cho hình thức múa này. Chúng ta cũng phải kể tới một sg hình thức sân khấu và trò dlễn ít nhiều liên quan tới các nghi lê của người Tày, Nùng, như phướngtrong tang lễ, trò ru nghệ trong lễ hội của người Tày ở Thái Nguyên…



Từ khóa tìm kiếm nhiều: lễ hội dân gian việt nam


Tín ngưỡng với tạo hình dân gian và phong tục, lễ hội

Tín ngưỡng với tạo hình dân gian

     Trong các nghi lễ tín ngưỡng của người Tày, Nùng cũng không thể thiếu các hình thức tạo hình dân gian, như tranh thờ, tượng thờ, các hình thức trang trí khác, trong đó nổi bật hơn cả là hệ thống tranh thờ. Cũng giống như một số tộc người thiểu số ở miền núi phía bác, như người Dao, sử dụng phổ biến hình thức tranh thờ trong các nghi lễ.

     Tuy có những đặc trưng chung với tranh thờ Dao do cùng chịu ảnh hưởng Đạo giáo và hệ thống tranh thờ nam Trung Quốc, nhưng tranh thờ Tày, Nùng cũng mang những nét riêng. Thí dụ, bên cạnh các tranh thờ chung, như: Tam Thanh, Thập điện diêm vtrong, Tam Tòa Thánh Mâu, các Nguyên Súy…, còn có các bộ tranh mang nét riêng của người Tày, Nùng, như: Hội Lồng Tồng, Mẹ Hoa, Thần Bếp, Thần gia súc… Đối với các tộc người này, sự hiện diện của tranh thờ chính là sự hiện diện của thần linh, do vậy các thầy cúng, đặc biệt là thầy Tào không thể hành lễ nếu thiếu các tranh thờ này.

Tín ngưỡng với phong tục và lễ hội

     Cũng như ở hầu hết các tộc người khác, đối với người Tày, Nùng tín ngưỡng tôn giáo đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc hình thành và tồn tại của các phong tục và lễ hội. Các hình thức tín ngưỡng tiêu biểu như thờ cúng tổ tiên, thờ thổ thần, các nghi lễ nông nghiệp, quan niệm về linh hồn và thờ phụng linh hồn người chết, các hình thức Mo, Then, Tào, Pụt… đã tạo nên biết bao phong tục, nghi lễ, kiêng cữ, hội hè của người Tày và Nùng trong phạm vi gia đình, dòng họ, thôn bản. Đây là những yếu tố luôn gắn kết với nhau như hình với bóng, nói cách khác, không có các hình thức tín ngưỡng dân gian kể trên thì cũng không có các phong tục, lễ hội như nó vốn tồn tại hàng bao đời nay. Trong hệ thống các phong tục, lễ hội này tuy ngày nay đã có những biến đổi, một số phong tục đã trở nên lạc hậu, lỗi thời, nhưng nhìn chung nó vẫn giữ được những nét đẹp, tính nhân bản, sự độc đáo góp phần quan trọng tạo nên bộ mặt văn hóa độc đáo của hai tộc người này. Điều này cũng có nghĩa là khi nhìn nhận và xử lý các vấn đề tôn giáo tín ngưỡng chúng ta không thể xem xét và xử lý tách ròi với các nhân tố khác, đặc biệt là với phong tục và nghi lễ, lễ hội.

phong tục, lễ hội

     Tóm lại, từ việc nhìn nhận một cách tổng quát các nhân tố tín ngưỡng và văn hóa của các tộc Tày, Nùng chúng ta có thể nêu ra các nhận xét sau đây:

- Tôn giáo tín ngưỡng Tày, Nùng khá phong phú và đa dạng, là kết quả của quá trình hình thành và phát triển lâu đời trên nền tảng của tín ngưỡng bản địa và những giao lưu ảnh hưởng với tôn giáo tín ngưỡng các tộc người cùng sinh sống trong khu vực, đặc biệt là người Việt và người Hoa. Nói cách khác tín ngưỡng dân gian của Tày, Nùng đã bản địa hóa các biến dạng khác nhau của tam giáo (Phật, Đạo, Nho) để tạo nên bộ mặt tôn giáo tín ngưỡng của họ ngày nay.

- Tôn giáo tín ngưỡng Tày, Nùng là một bộ phận hữu cơ của văn hóa tộc người, từ các hình thức tôn giáo tín ngưỡng này đã tích hợp và nảy sinh nhiều hiện tượng văn hóa khác tạo nên cái gọi là văn hóa tín ngưỡng Tày, Nùng, góp phần khắc họa và làm giàu có hơn nét độc đáo, bản sắc văn hóa của các tộc người này.

- Ngày nay, trong việc bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống các tộc người Tày, Nùng chúng ta không thể không xem xét một cách tổng thể các nhân tố tôn giáo tín ngưỡng và các nhân tố văn hóa khác, mối quan hệ hữu cơ giữa chúng, tránh cách nhìn và xử lý một cách phiến diện, thành kiến, cục bộ, mà hậu quả của nó là làm nghèo nàn nền văn hóa dân tộc, mất đi các nét độc đáo vốn có của các nền văn hóa đó.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: các lễ hội ở việt nam

Tín ngưỡng với ngữ văn dân gian

     Trong các tộc Tày, Nùng với các hình thức tôn giáo tín ngưỡng kể trên thì các hình thức thần thoại, truyền thuyết về các thần lỉnh, các lời cầu khấn trong các nghi lễ và đặc biệt là những lời hát thờ trong các nghi lễ Then, Tào, Pụt, Mo chiếm vị trí chủ đạo. vốn các hình thức kể trên tồn tại dưới dạng truyền miệng, nhưng dần dần đã được người ta dùng chữ nôm Tày, Nùng để ghi chép thành sách với cái tên chung là sách cúng của các thầy Tào, Then, Mo… Trong các bài cúng của Then, Pụt, Mo người ta ít dùng sách, ngôn ngữ nghi lễ thường là ngôn ngữ dân gian tiếng mẹ đẻ, còn thầy Tào thì dùng sách chữ Hán và chữ Nôm nhiều hơn. Điều này được giải thích bởi các nghi lễ của các thầy Then, Pụt, Mo chủ yếu là các tín ngưỡng dân gian bản địa, còn nghi lễ của thầy Tào chịu nhiều ảnh hưởng của Đạo giáo ngoại lai.

Tín ngưỡng với ngữ văn dân gian

      Những thập kỷ gần đãy, các nhà sưu tầm và nghiên cứu văn hóa dân gian, dân tộc học đã cố gắng sưu tầm các lời hát, lời khấn trong nghỉ lễ, đặc biệt là những sách cúng bằng chữ Hán, chữ Nôm. Đó là kho tư liệu quý giá không chỉ để nghiên cứu tôn giáo tín ngưỡng mà còn có giá trị trong nghiên cứu văn học và ngôn ngữ. Cũng như các hiện tượng ngữ văn dân gian khác, những lời cúng và sách cúng đều tồn tại dưới dạng dị bản, do vậy việc nghiên cứu so sánh dị bản là hết sức quan trọng, từ đó rút ra các quy luật trong giao lưu ảnh hưởng, trong xu hướng địa phương hóa.

      Cũng cần tiến hành nghiên cứu khối lượng tư liệu ngữ văn dân gian này về phương diện thể loại, thi pháp, các hình tượng nghệ thuật, ngôn ngữ và các hình thức tư duy, từ đó rút ra các đặc trưng và bản sắc văn hóa tộc người. Trong điều kiện sinh sống xen cài giữa các dân tộc, những giao lưu ảnh hưởng giữa các dẫn tộc hết sức sống động, đặc biệt là vân hóa Việt và văn hóa Hán tác động đáng kể tới văn hóa Tày, Nùng, thì hơn ai hết các hiện tượng tín ngưỡng tôn giáo thể hiện một cách rõ nét nhất. Do vậy, trong nghi lễ việc sử dụng ngôn ngữ khác tộc là điều thưởng gặp, nó tạo nên tính huyền bí của bản thân nghi lễ đó. Thí dụ, người Tày ở Bắc Sơn khí hội lâng người ta đục các bài cúng bằng béng Kinh, khiến tất cả mọi người tham dự đều không hiểu, nhưng lại gây được không khí huyền bí, linh thiêng.




Từ khóa tìm kiếm nhiều: lễ hội dân gian